Mặt trái của thủy điện

Thứ ba, 25/01/2011 00:00

(Cadn.com.vn) - Công bằng mà nói, thủy điện đóng góp một lượng điện năng rất lớn cho đất nước. Tuy nhiên, mặt trái của phát triển thủy điện do không có quy hoạch mang tính tổng thể, toàn diện, thiếu cái tầm và cả cái tâm... đã mang lại tác hại không nhỏ đối với nền KT-XH nước ta. Thiệt hại nặng nề về người và tài sản do lũ lụt gây ra đối với đồng bào miền Trung trong những năm qua, với hàng trăm người thiệt mạng, hàng vạn ngôi nhà bị tàn phá do lũ dữ, nền kinh tế và nhân dân bị thiệt hại lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng, môi trường sinh thái bị tàn phá nặng nề không thể một vài năm khắc phục hết được từ các công trình thủy điện gây nên... là một thực tế đau lòng.

Tôi không phải là chuyên gia về lĩnh vực này nhưng những gì mắt thấy, tai nghe về “lỗi” do thủy điện trong những năm gần đây, đặc biệt là năm 2010, là vô cùng to lớn. Hệ lụy của việc phát triển thủy điện tràn lan, không có sự quy hoạch tổng thể dẫn đến mất cân bằng về sinh thái. Trước hết là hàng ngàn héc-ta rừng đầu nguồn, mà hầu hết là rừng nguyên sinh, bị tàn phá không thương tiếc làm mất khả năng lưu giữ nước tự nhiên của rừng; khả năng điều tiết “mưa thuận, gió hòa” của rừng bị vô hiệu; vai trò “lá phổi” của rừng đối với môi trường sống bị xâm hại nghiêm trọng. Lũ bùn thường xảy ra trong những năm qua tác nhân là do rừng đầu nguồn bị tàn phá nặng nề. Trong hàng chục vụ phá rừng này mới chỉ có vụ phá rừng làm thủy điện Khe Diên (Quế Sơn-Quảng Nam) với hơn 10 bị cáo (trong đó có nhiều quan chức của địa phương) bị đưa ra trước vành móng ngựa xử lý hình sự về các tội: “Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng”, “Vi phạm các quy định về quản lý rừng”, “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Còn nhiều vụ phá rừng khác được cho là hợp pháp vì “nhờ” làm thủy điện (!).

 Hồ thủy điện Sông Ba Hạ (Phú Yên) xả lũ với cường độ lớn hôm 2-11-2010.

Tác hại của thủy điện không kém phần nghiêm trọng là do xả lũ không đúng quy trình gây nên lũ quét vùng thượng nguồn và lũ chồng lũ đối với vùng hạ lưu. Chúng ta chưa thể nào quên cơn lũ kinh hoàng xảy ra vào cuối tháng 9-2009 ở khu vực dự án và hạ lưu thủy điện A Vương. Nửa đêm 29-9 nước lũ bất ngờ dâng cao so với những cơn lũ lịch sử từ 1,5-2m ở các xã ven sông Vu Gia H. Đại Lộc và vùng hạ lưu H. Điện Bàn, TP Hội An (Quảng Nam), làm cho chính quyền địa phương không kịp trở tay triển khai phương án phòng chống lũ lụt và hàng trăm hộ dân chỉ trong một đêm tài sản ky cóp cả đời bị cuốn sạch theo nước lũ. Theo kết luận của UBND tỉnh Quảng Nam, đã có tổng cộng gần 150 triệu m3 nước từ hồ thủy điện A Vương được xả về hạ lưu đúng vào thời điểm lũ ở hạ lưu đang lên, do đó nhiều làng mạc ở Đại Lộc (Quảng Nam) bị chìm sâu trong lũ, có nơi vượt đỉnh lũ mọi năm lên gần 1,5m nước. Còn theo  số liệu quan trắc mực nước của Trung tâm Khí tượng thủy văn ở một số trạm quan trắc trên sông Vu Gia cho thấy việc xả lũ của thủy điện A Vương từ ngày 29 đến 30-9-2009 là nguyên nhân góp phần gây ngập lụt trên diện rộng và thiệt hại lớn cho hạ lưu.

Tương tự như A Vương, trong các cơn lũ lịch sử liên tiếp xảy ra trong tháng 9, 10 và 11-2010, các hồ thủy điện Hố Hô (Quảng Bình và Hà Tĩnh), sông Hinh, sông Ba Hạ (Phú Yên) đã xả lũ sai quy trình, chỉ lo cứu công trình thủy điện mà “quên” tác hại của người dân quanh vùng dự án và hạ lưu, làm cho hàng chục người chết, hàng ngàn ngôi nhà chìm sâu trong lũ dữ, thiệt hại lên đến hàng ngàn tỷ đồng; chỉ tính riêng các tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An đã thiệt hại hơn 6,5 ngàn tỷ đồng. Đó là chưa kể đến những thiệt hại không thể thống kê hết được đối với sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi và nước sinh hoạt của người dân hạ lưu trong mùa khô hạn, do các hồ thủy điện tích nước phục vụ cho sản xuất điện.

 Vùng hạ lưu hồ thủy điện Hố Hô (Hà Tĩnh)  ngập chìm trong lũ dữ tháng 10-2010.

Khi thiết kế tính toán đầu tư, hầu hết các công trình thủy điện đều nói đến việc điều tiết lũ mùa mưa và chống hạn mùa khô cho phần hạ du là điều kiện tiên quyết, nhưng đó chẳng qua là để thuyết phục phê duyệt dự án thôi. Sự thật thì đã quá rõ, ở các mùa lũ gần đây những địa phương có các dự án thủy điện thường xảy ra lũ chồng lũ vào mùa mưa bão và ruộng đồng khô hạn, người dân khát nước vào mùa hè là do các chủ dự án thủy điện “quên” chức năng điều tiết mà chỉ quan tâm đến lợi ích của dự án; trong đó có do cơ chế, sự quản lý của các cơ quan, ban, ngành liên quan thiếu sâu sát, không chặt chẽ.

Theo kế hoạch của ngành Điện, thủy điện năm 2010 chiếm 42,4% và đến năm 2020 sẽ chiếm 62% tỷ trọng nguồn điện năng ở nước ta. Đây là cơ cấu bất hợp lý cho hệ thống cung ứng điện của Việt Nam. Song khuyến cáo của tổ chức quốc tế, các tổ chức hoạt động về môi trường, sự phát triển nóng về thủy điện ở Việt Nam là cực kỳ nguy hiểm cho môi trường, môi sinh, không kiểm soát được lượng nước ở thượng nguồn. Cũng theo các tổ chức này, Việt Nam nên hạn chế tỷ lệ thủy điện dưới 30%. Mới đây, Chính phủ và chính quyền các địa phương đã đình chỉ xây dựng 38 dự án thủy điện tại 9 tỉnh, theo tôi đây là một động thái tích cực từ phía chính quyền và cần phải tổ chức thực hiện một cách kiên quyết.

Xin hãy dừng ngay việc xây dựng thủy điện bằng mọi giá, bởi những tác hại từ mặt trái của thủy điện như đã nêu trên là khôn lường.

Công Lý